GMT+7...
UTC...

Danh mục

Sức Khỏe

Những nhà khoa học nữ đóng góp vào lịch sử vaccine thế giới

📅 20/10/2025👁️ 1 lượt xem⏱️ 21 phút đọc
Những nhà khoa học nữ đóng góp vào lịch sử vaccine thế giới

Dorothy Millicent Horstmann và 4 nhà khoa học khác tham gia vào quá trình bào chế và hoàn thiện vaccine, từ đó thay đổi cách nhân loại chống lại dịch bệnh.

Dorothy Millicent Horstmann
Nhà khoa học nữ đầu tiên là Dorothy Millicent Horstmann nhờ khám phá đường lây của virus bại liệt. Bà sinh năm 1911 tại Mỹ, năm 1942, trở thành nghiên cứu sinh về Nội khoa tại Trường Y Yale, được Tiến sĩ John Rodman Paul hướng dẫn. Paul là người đồng sáng lập đơn vị nghiên cứu Bại liệt Yale.
Từ năm 1943-1944, Horstmann cùng các cộng sự tiến hành khảo sát năm đợt bùng phát bại liệt tại Mỹ. Họ thử nghiệm lấy mẫu từ dịch họng, dịch mũi, máu và phân để xác định nơi virus được tách ra. Phương pháp lấy mẫu nhiều vị trí trong nhiều ngày từ cùng một bệnh nhân đã giúp phát hiện thời gian virus tồn tại trong cơ thể và vị trí nhiễm chủ yếu. Nhóm nghiên cứu chứng minh được đường tiêu hóa đóng vai trò trung tâm gây bại liệt, không phải đường hô hấp.
Bức ảnh chụp Dorothy Millicent Horstmann trong phòng thí nghiệm. Ảnh:
Polio Place
Dorothy Millicent Horstmann
Nhà khoa học nữ đầu tiên là Dorothy Millicent Horstmann nhờ khám phá đường lây của virus bại liệt. Bà sinh năm 1911 tại Mỹ, năm 1942, trở thành nghiên cứu sinh về Nội khoa tại Trường Y Yale, được Tiến sĩ John Rodman Paul hướng dẫn. Paul là người đồng sáng lập đơn vị nghiên cứu Bại liệt Yale.
Từ năm 1943-1944, Horstmann cùng các cộng sự tiến hành khảo sát năm đợt bùng phát bại liệt tại Mỹ. Họ thử nghiệm lấy mẫu từ dịch họng, dịch mũi, máu và phân để xác định nơi virus được tách ra. Phương pháp lấy mẫu nhiều vị trí trong nhiều ngày từ cùng một bệnh nhân đã giúp phát hiện thời gian virus tồn tại trong cơ thể và vị trí nhiễm chủ yếu. Nhóm nghiên cứu chứng minh được đường tiêu hóa đóng vai trò trung tâm gây bại liệt, không phải đường hô hấp.
Bức ảnh chụp Dorothy Millicent Horstmann trong phòng thí nghiệm. Ảnh:
Polio Place
Trong một ca nhiễm từ bé gái 9 tuổi, Horstmann nghi ngờ virus bại liệt xuất hiện trong máu trước khi phát bệnh. Bà tiến hành thí nghiệm trên khỉ và tinh tinh, phát hiện virus có mặt trong máu sau 4-6 ngày, trước khi có dấu hiệu liệt. Bà cũng chứng minh virus tồn tại trong máu người từng tiếp xúc với bệnh nhân, kể cả khi không có triệu chứng.
Phát hiện này làm thay đổi nhận thức khoa học: virus xâm nhập qua miệng, nhân lên ở ruột, vào máu rồi tấn công hệ thần kinh. Horstmann từ đó đề xuất ngăn chặn virus qua đường ruột và máu, đồng thời ủng hộ phát triển vaccine uống phòng bại liệt.
Bức ảnh chụp Dorothy Horstmann thăm khám một bệnh nhân bại liệt tại thị trấn Hickory, bang Bắc Carolina, Mỹ. Ảnh:
Imago/Pond5 Images
Trong một ca nhiễm từ bé gái 9 tuổi, Horstmann nghi ngờ virus bại liệt xuất hiện trong máu trước khi phát bệnh. Bà tiến hành thí nghiệm trên khỉ và tinh tinh, phát hiện virus có mặt trong máu sau 4-6 ngày, trước khi có dấu hiệu liệt. Bà cũng chứng minh virus tồn tại trong máu người từng tiếp xúc với bệnh nhân, kể cả khi không có triệu chứng.
Phát hiện này làm thay đổi nhận thức khoa học: virus xâm nhập qua miệng, nhân lên ở ruột, vào máu rồi tấn công hệ thần kinh. Horstmann từ đó đề xuất ngăn chặn virus qua đường ruột và máu, đồng thời ủng hộ phát triển vaccine uống phòng bại liệt.
Bức ảnh chụp Dorothy Horstmann thăm khám một bệnh nhân bại liệt tại thị trấn Hickory, bang Bắc Carolina, Mỹ. Ảnh:
Imago/Pond5 Images
Nghiên cứu của Horstmann về virus bại liệt trong máu người đã mở đường cho sự ra đời của vaccine. Dựa trên nền tảng đó, Jonas Salk phát triển vaccine bất hoạt (IPV) năm 1954, còn Albert Sabin hoàn thiện vaccine uống (OPV) năm 1961, góp phần xóa sổ bệnh bại liệt toàn cầu.
Bà tiếp tục nghiên cứu các bệnh nhi khoa và virus Rubella, Coxsackie, Echo, đặt nền móng cho vaccine Rubella trẻ em tại Mỹ năm 1969.
Horstmann là nữ giáo sư chính thức đầu tiên tại Trường Y Yale, Chủ tịch Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ, và thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ từ năm 1975.
Bức ảnh chụp ngày 27/4/1954, khi vaccine bại liệt của Jonas Salk được tiêm thử nghiệm lần đầu tiên tại New York. Ảnh:
March of Dimes Foundation
Nghiên cứu của Horstmann về virus bại liệt trong máu người đã mở đường cho sự ra đời của vaccine. Dựa trên nền tảng đó, Jonas Salk phát triển vaccine bất hoạt (IPV) năm 1954, còn Albert Sabin hoàn thiện vaccine uống (OPV) năm 1961, góp phần xóa sổ bệnh bại liệt toàn cầu.
Bà tiếp tục nghiên cứu các bệnh nhi khoa và virus Rubella, Coxsackie, Echo, đặt nền móng cho vaccine Rubella trẻ em tại Mỹ năm 1969.
Horstmann là nữ giáo sư chính thức đầu tiên tại Trường Y Yale, Chủ tịch Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ, và thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Mỹ từ năm 1975.
Bức ảnh chụp ngày 27/4/1954, khi vaccine bại liệt của Jonas Salk được tiêm thử nghiệm lần đầu tiên tại New York. Ảnh:
March of Dimes Foundation
Pearl Kendrick và Grace Eldering
Thập niên 1930, ho gà là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ em Mỹ. Hai nhà khoa học Pearl Kendrick và Grace Eldering, Sở Y tế Michigan bắt đầu nghiên cứu phòng bệnh.
Năm 1932, họ thu mẫu, nuôi cấy và phân lập vi khuẩn gây bệnh Bordetella pertussis, dù thiếu kinh phí và phải làm ngoài giờ. Sau 6 năm, đến 1938, nhóm tiến hành thử nghiệm vaccine ho gà trên trẻ em với quy trình kiểm soát nghiêm ngặt.
Vaccine ho gà được bang Michigan phê duyệt và sản xuất đại trà năm 1940, mở đường cho vaccine phối hợp DPT phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, triển khai tiêm chủng định kỳ toàn cầu.
Chân dung Pearl Kendrick (phải) và Grace Eldering (trái). Ảnh:
Human Progress
Pearl Kendrick và Grace Eldering
Thập niên 1930, ho gà là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ em Mỹ. Hai nhà khoa học Pearl Kendrick và Grace Eldering, Sở Y tế Michigan bắt đầu nghiên cứu phòng bệnh.
Năm 1932, họ thu mẫu, nuôi cấy và phân lập vi khuẩn gây bệnh Bordetella pertussis, dù thiếu kinh phí và phải làm ngoài giờ. Sau 6 năm, đến 1938, nhóm tiến hành thử nghiệm vaccine ho gà trên trẻ em với quy trình kiểm soát nghiêm ngặt.
Vaccine ho gà được bang Michigan phê duyệt và sản xuất đại trà năm 1940, mở đường cho vaccine phối hợp DPT phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, triển khai tiêm chủng định kỳ toàn cầu.
Chân dung Pearl Kendrick (phải) và Grace Eldering (trái). Ảnh:
Human Progress
Katalin Karikó
Từ thập niên 1990, Giáo sư Katalin Karikó và Drew Weissman nghiên cứu công nghệ mRNA. Công nghệ này từng bị xem là rủi ro do phân tử mong manh, dễ gây viêm. Bằng cách chỉnh sửa cấu trúc mRNA, họ giảm phản ứng viêm, tăng khả năng sinh protein, mở đường ứng dụng y học. Công trình công bố năm 2005 trên tạp chí Immunity, đặt nền móng cho vaccine mRNA hiện đại.
Hai nhà khoa học Drew Weissman (bên trái) và Katalin Kariko (bên phải). Ảnh:
Penn Medicine
Katalin Karikó
Từ thập niên 1990, Giáo sư Katalin Karikó và Drew Weissman nghiên cứu công nghệ mRNA. Công nghệ này từng bị xem là rủi ro do phân tử mong manh, dễ gây viêm. Bằng cách chỉnh sửa cấu trúc mRNA, họ giảm phản ứng viêm, tăng khả năng sinh protein, mở đường ứng dụng y học. Công trình công bố năm 2005 trên tạp chí Immunity, đặt nền móng cho vaccine mRNA hiện đại.
Hai nhà khoa học Drew Weissman (bên trái) và Katalin Kariko (bên phải). Ảnh:
Penn Medicine
Vaccine mRNA không dùng virus suy yếu mà hướng dẫn tế bào tạo protein virus, kích hoạt miễn dịch hiệu quả. Phát hiện của Karikó và Weissman giúp phát triển vaccine Pfizer-BioNTech và Moderna trong đại dịch Covid-19, bảo vệ hàng tỷ người.
Công nghệ mRNA đang được mở rộng trong điều trị HIV, ung thư, bệnh tự miễn và rối loạn di truyền, mở ra kỷ nguyên mới cho y học.
Karikó và Weissman nhận Giải Nobel Y sinh học 2023 và Giải thưởng VinFuture 2021. Bức ảnh chụp vaccine Covid-19 trong phòng thí nghiệm. Ảnh:
Vecteezy
Vaccine mRNA không dùng virus suy yếu mà hướng dẫn tế bào tạo protein virus, kích hoạt miễn dịch hiệu quả. Phát hiện của Karikó và Weissman giúp phát triển vaccine Pfizer-BioNTech và Moderna trong đại dịch Covid-19, bảo vệ hàng tỷ người.
Công nghệ mRNA đang được mở rộng trong điều trị HIV, ung thư, bệnh tự miễn và rối loạn di truyền, mở ra kỷ nguyên mới cho y học.
Karikó và Weissman nhận Giải Nobel Y sinh học 2023 và Giải thưởng VinFuture 2021. Bức ảnh chụp vaccine Covid-19 trong phòng thí nghiệm. Ảnh:
Vecteezy
Sarah Gilbert
Bà Sarah Gilbert là giáo sư ngành nghiên cứu vaccine tại Đại học Oxford, sinh năm 1962, đồng thời là "mẹ đẻ" của vaccine Covid-19 AstraZeneca. Trước đại dịch Covid-19, bà Sarah Gilbert đã có hơn 25 năm nghiên cứu vaccine các bệnh truyền nhiễm như cúm, MERS, Ebola. Đầu 2020, bà dẫn đầu nhóm phát triển vaccine AstraZeneca ngừa Covid-19, ứng dụng công nghệ vector virus chimpanzee adenovirus từng dùng cho vaccine MERS. Vaccine được hoàn thiện và thử nghiệm lâm sàng chỉ sau vài tháng.
Ảnh chụp chân dung bà Sarah Gilber. Ảnh:
New Scientist
Sarah Gilbert
Bà Sarah Gilbert là giáo sư ngành nghiên cứu vaccine tại Đại học Oxford, sinh năm 1962, đồng thời là "mẹ đẻ" của vaccine Covid-19 AstraZeneca. Trước đại dịch Covid-19, bà Sarah Gilbert đã có hơn 25 năm nghiên cứu vaccine các bệnh truyền nhiễm như cúm, MERS, Ebola. Đầu 2020, bà dẫn đầu nhóm phát triển vaccine AstraZeneca ngừa Covid-19, ứng dụng công nghệ vector virus chimpanzee adenovirus từng dùng cho vaccine MERS. Vaccine được hoàn thiện và thử nghiệm lâm sàng chỉ sau vài tháng.
Ảnh chụp chân dung bà Sarah Gilber. Ảnh:
New Scientist
Vaccine AstraZeneca sử dụng mã di truyền virus SARS-CoV-2 để tế bào tạo protein gai, kích hoạt miễn dịch và ghi nhớ mầm bệnh. Nhờ đó, cơ thể nhận diện và tiêu diệt virus nhanh chóng khi tái xâm nhập.
Vaccine đã được triển khai tại hơn 180 quốc gia. Năm 2021, Sarah Gilbert được Nữ hoàng Anh phong tước Hiệp sĩ vì đóng góp cho y học toàn cầu.
Lọ đựng vaccine Covid-19 của AstraZenaca tại một điểm tiêm chủng ở London, Anh ngày 18/2/2021. Ảnh:
Reuters
Vaccine AstraZeneca sử dụng mã di truyền virus SARS-CoV-2 để tế bào tạo protein gai, kích hoạt miễn dịch và ghi nhớ mầm bệnh. Nhờ đó, cơ thể nhận diện và tiêu diệt virus nhanh chóng khi tái xâm nhập.
Vaccine đã được triển khai tại hơn 180 quốc gia. Năm 2021, Sarah Gilbert được Nữ hoàng Anh phong tước Hiệp sĩ vì đóng góp cho y học toàn cầu.
Lọ đựng vaccine Covid-19 của AstraZenaca tại một điểm tiêm chủng ở London, Anh ngày 18/2/2021. Ảnh:
Reuters
Hải Nghiên

Bài viết nổi bật cùng chủ đề

Vì sao HPV gây u hốc mũi?
Sức Khỏe

Vì sao HPV gây u hốc mũi?

Vì sao HPV lại gây u ở hốc mũi? U này thường lành tính hay ác tính, tôi cần điều trị thế nào? (Anh Minh, 32 tuổi, TP HCM)

📅 11/10/2025👁️ 110 lượt xem
VnExpress logoVnExpress